Lịch sử Creatine

Creatine lần đầu tiên được xác định vào năm 1832 khi Michel Eugène Chevreul phân lập nó từ chiết xuất nước cơ bản của cơ xương. Sau đó, ông đặt tên cho kết tủa kết tinh theo từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "thịt", κρέας (kreas). Năm 1928, creatine đã được chứng minh là tồn tại ở trạng thái cân bằng với creatinine.[3] Các nghiên cứu trong những năm 1920 cho thấy việc tiêu thụ một lượng lớn creatine không dẫn đến sự bài tiết của nó. Kết quả này chỉ ra khả năng của cơ thể trong việc lưu trữ creatine, do đó đề nghị sử dụng nó như một chất bổ sung chế độ ăn uống.[4]

Năm 1912, các nhà nghiên cứu Otto FolinWilley Glover Denis của Đại học Harvard đã tìm thấy bằng chứng cho thấy việc tiêu thụ creatine có thể làm tăng đáng kể hàm lượng creatine trong cơ bắp.[5] Vào cuối những năm 1920, sau khi phát hiện ra rằng có thể tăng lượng dự trữ creatine trong cơ bắp bằng cách tiêu thụ creatine với lượng lớn hơn bình thường, các nhà khoa học đã phát hiện ra creatine phosphate và xác định rằng creatine là nhân tố chính trong quá trình chuyển hóa cơ xương. Các creatine chất được hình thành tự nhiên ở động vật có xương sống.[6]

Việc phát hiện ra phosphocreatine[7][8] đã được báo cáo vào năm 1927.[8][9][10] Vào những năm 1960, creatine kinase (CK) đã được chứng minh là có thực hiện phosphoryl hoá ADP bằng cách sử dụng phosphocreatine (PCr) để tạo ATP. Theo đó, ATP, không phải PCr được tiêu thụ trực tiếp trong quá trình co cơ. CK sử dụng creatine để "đệm" tỷ lệ ATP/ADP.[11]Mặc dù ảnh hưởng của creatine đối với hoạt động thể chất đã được ghi nhận rõ ràng từ đầu thế kỷ XX, nhưng nó chỉ phổ biến với đại chúng sau Thế vận hội năm 1992 tại Barcelona. Một bài báo ngày 7 tháng 8 năm 1992 trên tờ The Times cho biết Linford Christie, người giành huy chương vàng ở cự ly 100 mét, đã sử dụng creatine trước Thế vận hội. Một bài báo trên tờ Bodybuilding Monthly nêu tên Sally Gunnell, người từng đoạt huy chương vàng trong cự ly 400m vượt rào, với tư cách là một người dùng creatine khác. Ngoài ra, The Times cũng lưu ý rằng vận động viên vượt rào 100 mét Colin Jackson đã bắt đầu dùng creatine trước Thế vận hội.[12][13]

Phosphocreatine chuyển nhóm phosphate thành ADP

Vào thời điểm đó, các chất bổ sung creatine hiệu lực thấp đã có sẵn ở Anh, nhưng các chất bổ sung creatine được thiết kế để tăng cường sức mạnh không được bán trên thị trường cho đến năm 1993, khi một công ty có tên là Experimental and Application Science (EAS) giới thiệu hợp chất này vào thị trường dinh dưỡng thể thao với tên gọi Phosphagen.[14] Nghiên cứu được thực hiện sau đó đã chứng minh rằng việc tiêu thụ carbohydrate có đường huyết cao kết hợp với creatine làm tăng lượng dự trữ creatine trong cơ bắp.[15]

Creatinine dẫn xuất tuần hoàn tồn tại ở trạng thái cân bằng với đồng phân tautome của nó và với creatine.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Creatine http://redpoll.pharmacy.ualberta.ca/drugbank/cgi-b... http://findarticles.com/p/articles/mi_m0801/is_5_6... http://www.jissn.com/content/4/1/6 http://www.nationalreviewofmedicine.com/issue/2004... http://www.webmd.com/vitamins-supplements/ingredie... http://chemapps.stolaf.edu/jmol/jmol.php?model=CN(... http://www.cancer.gov/cancertopics/factsheet/Risk/... http://www.cancer.gov/cancertopics/factsheet/Risk/... http://pubchem.ncbi.nlm.nih.gov/summary/summary.cg... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1130636